thien su di nhu

Sau khi kết thúc lịch trình tại Bali thì các thí sinh Miss Grand International 2022 tiếp tục di chuyển đến Jakarta để chuẩn bị cho những phần thi khác. Ngay khi vừa đến nơi, 71 thí sinh đã được chia thành các nhóm khác nhau và diện outfit theo từng team. Mặc dù ở 2 nhóm khác nhau nhưng Thiên Ân và chị đẹp Engfa Waraha Ngoài ra còn bổ sung lá thông và nước ngải cứu có thể ức chế tiết dầu và dưỡng ẩm, giúp cải thiện tình trạng khô da đầu, nhạy cảm và các vấn đề khác. Thực sự phù hợp cho những bạn gái phải chịu áp lực công việc hàng ngày và gây ra các vấn đề về da đầu! Có hai dòng "Zhijing" và "Oxy tái sinh" trong Senhuo Hair Bath. Tiểu thuyết "Thần Điêu Hiệp Lữ" Cửu Dương Chân Kinh lần đầu được nhắc đến là khi Giác Viễn thiền sư truy đuổi Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử đến Hoa Sơn ở phần cuối Thần điêu hiệp lữ. Doãn Khắc Tây và Tiêu Tương Tử trong khi tạm lánh ở Thiếu lâm tự đã ăn trộm bộ sách này và đã bị Giác Viễn truy đuổi để đòi lại. 2. Quy định về rừng đặc dụng: Rừng đặc dụng được sử dụng chủ yếu để bảo tôn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen sinh vật rùng; nghiên cứu khoa học; bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh; phục vụ nghỉ ngơi, du lịch Phap Thoai, Ni Su, Nhu Thuy, Phat Phap, Nhiem Mau, Vi Dieu, Niem Phat, Adida, A Di Da Phat, A Di Đà Phật, Tinh Do, Tịnh Độ Addeddate 2010-02-28 06:22:53 Freie Presse Chemnitz Anzeigen Er Sucht Sie. Nhục thân thiền sư Như Trí với sự xâm hại nghiêm trọng của thời tiết, vi khuẩn, côn trùng hàng mấy trăm năm, lẽ ra toàn thể đã phải về với cát bụi, thế nhưng, vì sao ngài vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí cả khối vật chất của phủ tạng cũng vẫn còn nguyên vẹn? Câu hỏi này chưa có lời giải đáp. > Vì sao các thiền sư bất hoại sau khi viên tịch? Chùa Tiêu thờ nhục thân của thiền sư Như Trí Chùa Tiêu hầu như không bị ảnh hưởng bởi các biến cố lịch sử qua nhiều thời kỳ, giữ nguyên được nét kiến trúc thời Lê - Nguyễn. Chùa là chốn tu thiền giảng đạo của nhiều bậc cao tăng trong đó sư Vạn Hạnh là người trụ trì. Chùa Tiêu xưa có tên là chùa Lục Tổ, tọa lạc ở sườn núi Tiêu, thuộc xã Tương Giang, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội 20km về phía Bắc dọc theo quốc lộ 1A. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa xưa từng lưu giữ ván in sách Thiền uyển tập anh, một tác phẩm ghi chép về các danh tăng Việt Nam có giá trị về văn học, sử học, triết học. Chùa được dựng từ thời Lý. Chùa là nơi tu thiền và giảng pháp của nhiều cao tăng thời Lý, như Thiền sư Vạn Hạnh. Ở chùa có tấm bia đá cao 0,68m, ngang 0,40m, khắc bốn chữ “Lý Gia Linh Thạch”. Sách Từ điển di tích văn hóa Việt Nam Hà Nội, 1993 giới thiệu chùa này xưa là nơi trụ trì của Thiền sư Vạn Hạnh đồng thời cũng là nơi sinh của vua Lý Thái Tổ. Sử xưa cho biết ở Viện Cảm Tuyền chùa Thiên Tâm có con chó đẻ con sắc trắng đốm đen thành hình hai chữ “Thiên tử” điều đó ứng với việc vua Lý Thái Tổ sinh năm Giáp Tuất rồi lên làm vua. Chùa được trùng tu nhiều lần. Cổng chùa hiện nay được xây năm 1986. Chùa xưa từng lưu giữ ván in sách Thiền uyển tập anh, một tác phẩm ghi chép về các danh tăng Việt Nam có giá trị về văn học, sử học, triết học. Chùa đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia. Đặc biệt, chùa còn giữ tháp mộ và nhục thân Thiền sư Như Trí bất hoại trọn 300 năm, Ngài viên tịch năm Quý Mão 1723, là người có công khắc in cuốn Thiền Uyển tập anh. Nhà Tổ chùa Tiêu. Nhục thân thiền sư Như Trí 300 năm bất hoại Ni sư Đàm Chính - Trụ trì chùa Tiêu, người đã ngoài 90, đã có hơn 80 năm gắn bó với ngôi chùa Tiêu kể lại “Ngày xưa, khắp ngọn núi Tiêu cây cỏ rậm rạp, rắn rết bò lổm ngổm đầy núi, nên chẳng ai dám vào khu vực có mộ tháp, nơi đặt xương cốt của các hòa thượng. Hồi mới về chùa, có năm mưa gió liên miên, cây cỏ rậm rạp, mọc trùm kín các mộ tháp, nên nhà chùa đã bắc thang trèo lên các mộ tháp để dọn cỏ. Như duyên trời, khi nhà chùa dọn cỏ ở tháp Viên Tuệ, thì một viên gạch rơi ra. Nhà chùa cầm viên gạch ghép lại chỗ cũ, thì phát hiện thấy dòng chữ in trên viên gạch Hòa thượng Như Trí, viên tịch năm 1723 Bảo Thái năm thứ tư triều Lê Dục Tông. Sau này, tìm hiểu các tài liệu, thấy tên sư Như Trí đứng thứ 15 trong danh sách các vị hòa thượng đã trụ trì chùa Tiêu, vẫn được chùa cúng thỉnh”. Ni sư Đàm Chính - Trụ trì chùa Tiêu, người đã ngoài 90, đã có hơn 80 năm gắn bó với ngôi chùa Tiêu. Qua khe hở do viên gạch rơi ra, ni sư Đàm Chính ghé mắt nhìn vào và giật mình suýt ngã khi thấy rõ ràng một người đang ngồi kiết già trong tháp. Hoảng quá, ni sư Đàm Chính cầm viên gạch bịt kín lại và chôn chặt chuyện này trong lòng, không kể với bất kỳ ai. Theo các tài liệu còn lưu lại ở chùa, thiền sư Như Trí là đệ tử nối pháp của thiền sư Chân Nguyên. Thiền sư Như Trí đã từng khắc in lại bộ Thiền Uyển Tập Anh, là bộ sách có giá trị đặc biệt không những về lịch sử Phật giáo mà còn là một tác phẩm truyền kỳ có giá trị về văn học, triết học và văn hóa dân gian. Thiền sư Như Trí cùng người thầy Chân Nguyên của mình tiếp nối tinh thần phục hưng dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Theo các tài liệu của thiền phái Trúc Lâm, sau khi mãn duyên độ sinh, ngài an nhiên trước sinh tử, nhập thất kiết già và để lại nhục thân bất hoại. Theo ni sư Đàm Chính, nếu không có sự kiện một người chăn trâu mò lên tháp tìm của quý, chọc thủng pho tượng thiền sư Như Trí, thì ni sư quyết đem bí mật về pho tượng kia xuống suối vàng. Năm ấy, một người đàn ông trong làng, khi thả trâu trên núi Tiêu, đã mò lên tháp Viên Tuệ với ý định tìm… vàng bạc. Gỡ mấy viên gạch ra, ông này nhìn thấy một pho tượng giống hệt một người còm nhom đang ngồi trong tháp. Do tò mò, ông ta đã kiếm một cây gậy chọc thử vào pho tượng. Kết quả, ông ta chọc thủng mặt vị thiền sư đã an tọa gần 300 năm trong tháp gạch rêu phong. Tháp Viên Tuệ - nơi ni sư Đàm Chính đã phát hiện nhục thân thiền sư Như Trí. Sau này người chăn trâu này bị bệnh trọng, thế là lời đồn thổi về một nhà sư chết ngồi trong tháp rất linh lan truyền khắp xóm thôn. Biết không thể giấu kín chuyện này mãi, khi Hòa thượng Thích Thanh Từ - trụ trì Thiền viện Trúc Lâm ở Đà Lạt và Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt - Tổng thư ký Thiền viện Trúc Lâm tới thăm chùa Tiêu Sơn. Ni sư Đàm Chính đã báo cáo với Hòa thượng Thích Thanh Từ - Trụ trì Thiền viện Trúc Lâm ở Đà Lạt và nhờ thiền viện giúp đỡ. Quá trình tu bổ Nhục thân thiền sư Như Trí Bắt đầu quá trình tu bổ PGS. TS Nguyễn Lân Cường kể, hồi đang tu bổ nhục thân Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường ở chùa Đậu, Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt - Tổng thư ký Thiền viện Trúc Lâm đã đến xem và có ý yêu cầu ông tu bổ giúp một nhục thân nữa, tuy nhiên, gặng hỏi mãi mà vị tỳ kheo kia nhất quyết không nói đó là nhục thân nào, ở chùa nào. Chúng tôi đã soạn thảo dự án “Tu bổ và bảo quản nhục thân thiền sư Như Trí ở chùa Tiêu Sơn Bắc Ninh”. Theo dự án này, Sở Văn hóa - Thông tin Bắc Ninh là cơ quan lập thiết kế và phương án thi công, Thiền viện Trúc Lâm là đơn vị chủ đầu tư của dự án. Tôi là chủ nhiệm dự án cùng thực hiện với họa sĩ sơn mài Đào Ngọc Hân và Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt - Tổng thư ký Thiền viện Trúc Lâm, người theo sát dự án để lo kinh phí. Thiền sư Như Trí lúc đang ngồi trong am tháp Ảnh chụp lại ở chùa Tiêu. Ngày nhục thân thiền sư Như Trí được đưa ra khỏi tháp. Nhục thân ngồi thiền định trong tư thế bán già, tay kiết ấn Tam muội, nhưng vì ẩm mốc nên bị mục rớt phần cẳng tay. Có một lỗ thủng lớn chính giữa mặt. Xương mũi và xương hàm trên thụt vào hộp sọ. Xương màu đen còn nhìn thấy rõ bên trong hộp sọ. Vết nứt ở tai phải từ thái dương qua trước dái tai xuống cổ và chạy sát tới đầu xương đòn phải. Hai tay bị vỡ từ cánh tay đến hết bàn tay. Các mảnh vỡ rơi rụng xuống nền và lẫn với đất, đá. Xương mỏng và có màu đen. Một vết vỡ lớn khác ở giữa ống chân phải, không nhìn thấy xương. Mặc dầu tượng bị vỡ phần tay, ống tay bị vỡ rụng xuống dưới, nhưng trên ống chân còn dấu vết của một phần bàn tay. Phía trong mảng bồi, nhìn thấy rõ thớ vải bằng mắt thường. Trật tự từ ngoài vào trong là vải bồi, bó, hom, sơn màu ngà. Không thấy thếp vàng hay bạc. Nhục thân được sơn phủ bên ngoài một lớp sơn ta màu ngà, mắt và lông mày vẽ bằng sơn đen. Lớp sơn đã bị bong tróc nhiều nơi, nên có màu sắc loang lổ. Do nhục thân đặt trong tháp bịt kín lâu ngày trong môi trường ẩm, mốc làm hỏng lớp sơn và bong tróc. Từ các phần hỏng, thủng, hơi ẩm, côn trùng và vi sinh vật đang xâm nhập vào phá hoại phần bên trong của nhục thân. Người chăn trâu đã chọc thủng mặt vị thiền sư đã an tọa gần 300 năm trong tháp gạch rêu phong. Do ở chùa Tiêu Sơn rất hiếm nước, khách tham quan lại đông nên việc tu bổ, bảo quản được quyết định chuyển về thực hiện tại chùa Duệ Khánh xã Nội Duệ, huyện Tiên Du - Bắc Ninh. Để diệt khuẩn ở bên ngoài và trong tượng, phải phun thuốc diệt khuẩn và xông thuốc. Bề mặt pho tượng bị nứt, nhiều nơi bị bong tróc lớp sơn ta. Chúng tôi xử lý ngay bề mặt pho tượng bằng cách phủ bề mặt bằng vải màn và phủ sơn rồi rắc mạt cưa lên sơn khi bề mặt chưa khô. Bề mặt pho tượng được gia cố dần. Khi gỡ phần nhục thân khỏi đế, chúng tôi phát hiện đế là một tấm gốm nung màu đỏ, mặt áp vào đáy tượng có in hình nan phên. Phía trong lớp bồi nhìn rất rõ lớp vải màn. Từ mặt đáy, xương sên, gót và xương mác nằm khá đúng vị trí giải phẫu. Như vậy có thể kết luận nhục thân được bó cốt ngay sau khi tịch, không có sắp xếp xương như nhục thân thiền sư Vũ Khắc Trường. Để xác định giới tính, tuổi tác, tầm vóc và bệnh lý của thiền sư Như Trí, PGS, TS Nguyễn Lân CƯờng đã nghiên cứu tất cả số di cốt bị rơi xuống dưới trong khi đưa nhục thân ra khỏi tháp. Có một đốt sống ngực có chiều cao thân thấp và không cân xứng. Điều này gợi ý cho chúng tôi về bệnh viêm cột sống của thiền sư. Diện khớp mu còn thấy rõ để có thể định tuổi của thiền sư khoảng 40 - 45 tuổi. Nhục thân thiền sư Như Trí khi chưa tu bổ. Phủ tạng còn nguyên trong bụng Vào ngày điều vô cùng ngạc nhiên với PGS,TS. Nguyễn Lân Cường khi tu bổ pho tượng, đó là ông đã phát hiện ra một khối hợp chất bằng quả bưởi nằm trong bụng thiền sư Như Trí. PGS,TS. Nguyễn Lân Cường kể Tôi và họa sĩ sơn mài Đào Ngọc Hân lật ngược nhục thân để nghiên cứu phần trong lòng và ngạc nhiên khi phát hiện ra một khối hợp chất bằng quả bưởi nằm chính giữa phần bụng. Tượng được phủ kín bằng sơn ta, phía dưới lại có đáy gốm, do đó khối vật chất này từ ngoài không thể lọt vào trong ổ bụng được. Sau khi lấy mẫu phân tích, kết quả thật bất ngờ rằng đó là các chất còn lại của phần phủ tạng trong bụng thiền sư Như Trí. Như vậy, đây là lần đầu tiên ở Việt Nam phát hiện và chứng minh được có phần nội tạng trong bụng thiền sư. Điều này có thể suy luận rằng trong bụng thiền sư Vũ Khắc Minh ở chùa Đậu, huyện Thường Tín Hà Tây cũ chắc cũng còn lại khối vật chất là phần nội tạng mà qua phim X-quang không thể phát hiện được. Nhục thân thiền sư Như Trí lúc mới phát hiện trong tháp mộ. Ông Cường khẳng định “Tượng được phủ kín bằng lớp bồi, phía dưới lại có đáy gốm hình tòa sen, do đó, khối vật chất này không thể lọt vào ổ bụng được”. Tin chắc khối vật chất này chính là nội tạng của thiền sư Như Trí, song ông Cường và các nhà khoa học vẫn lấy mẫu chuyển đến Viện Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia để phân tích. Đúng như dự đoán, kết quả phân tích hóa học cho thấy, hợp chất lấy từ bụng thiền sư Như Trí chính là các chất còn lại của phần phủ tạng. Từ kết quả này, PGS, TS. Nguyễn Lân Cường suy luận rằng, trong bụng hai vị thiền sư chùa Đậu cũng có khối hợp chất còn lại của nội tạng mà máy chụp X-quang không phát hiện được. Ngày Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt và PGS, TS. Nguyễn Lân Cường đã chuyển nhục thân thiền sư Như Trí tới Bệnh viện Đa khoa Bắc Ninh để chụp phim X-quang. Sau khi đã tu bổ được phần thân, PGS, TS. Nguyễn Lân Cường khoét phần gáy để đưa đốt sống cổ bị rời ra ban đầu. Đến độ sâu 1,3 cm bỗng chiếc đục trên tay họa sĩ Đào Ngọc Hân bật trở lại, ánh xanh của gỉ đồng lóe lên. Ngày Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt và PGS, TS. Nguyễn Lân Cường đã chuyển nhục thân thiền sư Như Trí tới Bệnh viện Đa khoa Bắc Ninh để chụp phim X-quang. Và đã phát hiện thấy sau khi bồi lớp thứ nhất, người ta đã đặt một tấm đồng lớn trên lưng chiều dài 65 cm; rộng 15 cm và một tấm đồng trên ngực chiều rộng 22 cm. Phía ngoài hai tấm đồng là lớp bồi dày trên dưới 1 cm. Trên đầu và bắp tay cũng được cuốn những dải băng bằng đồng có các kích thước khác nhau. Vòng quanh đầu trên hai tai là ba dải băng một dải nhỏ 0,6 cm, hai dải lớn hơn 0,79 cm. Có ba dải băng khác từ trên đỉnh đầu dọc theo thái dương xuống sau cằm. Ba dải băng này có một dải to 1cm và hai dải nhỏ 0,5 cm. Nhìn theo chuẩn sau có bốn dải băng to chiều rộng 2,13 cm, chạy từ cổ lên đỉnh đầu luồn qua dải băng to vuông góc với nó gập quay trở lại xuống cổ ở phía sau gáy. Qua phim X-quang thấy rất rõ vết gấp này. Một số dải băng khác được cuốn quanh cổ và hai dải băng có chiều ngang nhỏ 0,4 cm chạy vòng từ nách vắt qua vai, từ trước ra sau. Để bảo đảm độ bền vững cho pho tượng nhục thân thiền sư Như Trí, PGS, TS Nguyễn Lân Cường và đồng nghiệp đã thếp bạc trên toàn bộ pho tượng. Đồng thời quyết định đổ khuôn làm một pho tượng thứ hai bằng composite đặt trong tháp Viên Tuệ, còn pho tượng gốc đặt tại nhà Tổ. Đây là hiện tượng đầu tiên ở Việt Nam. Có nhiều khả năng nó giúp cho tư thế ngồi của thiền sư vươn thẳng, tránh bị cúi gập xuống ở phần cổ, lưng và cũng có khả năng để bảo vệ hộp sọ. Lớp bồi bên ngoài nhục thân thiền sư Như Trí dày 0,66 cm, gồm hai lớp lớp ngoài màu vàng nâu, lớp trong màu đen. Cả hai lớp thành phần đều gồm vải, sơn ta và mạt cưa... Không hề có dát vàng hay bạc như tượng thiền sư Vũ Khắc Minh. Để bảo đảm độ bền vững cho pho tượng nhục thân thiền sư Như Trí, PGS, TS Nguyễn Lân Cường và đồng nghiệp đã thếp bạc trên toàn bộ pho tượng. Đồng thời quyết định đổ khuôn làm một pho tượng thứ hai bằng composite đặt trong tháp Viên Tuệ, còn pho tượng gốc đặt tại nhà Tổ. Ngày lễ khánh thành việc tu bổ và bảo quản nhục thân thiền sư Như Trí đã được tổ chức tại chùa Tiêu Sơn. Ngày Thiền viện Trúc Lâm đã tổ chức lễ cầu nguyện cho thiền sư Như Trí tại chùa Duệ Khánh và làm lễ rước nhục thân về chùa Tiêu Sơn rất trọng thể. Ngày lễ khánh thành việc tu bổ và bảo quản nhục thân thiền sư Như Trí đã được tổ chức tại chùa Tiêu Sơn. Skip to content Thiền Pháp Tạng Việt Nam Trang Nhà Kinh Sách Lời Ngỏ KINH CỦA ĐỨC DI LẠC TÔN PHẬT KIẾP NÀY Thuyết Giảng Đức Vô Thượng Di Lạc Tôn Phật Khai Thị Thiền Sư Bồ Tát Di Như Giảng Tại Hoa Kỳ Thiền Sư Bồ Tát Di Như Giảng Qua Anh Quốc Thiền Sư Bồ Tát Di Như Giảng Về Việt Nam Nghiên Cứu Bước đầu tu tập 72 Câu Vấn Đáp Tìm kiếm Thông báo Liên Hệ Tìm kiếm Menu Search for Category Archives Thiền Sư Bồ Tát Di Như Giảng Về Việt Nam Như Lai Thiền 4 Như Lai Thiền 4 Download Như Lai Thiền 3 Như Lai Thiền 3 Download Như Lai Thiền 2 Như Lai Thiền 2 Download Như Lai Thiền 1 Như Lai Thiền 1 Nghe tại Youtube Download Phật Tánh Download Chân Lý Thực Tiễn Quan Âm Cứu Khổ 4 Chân Lý Thực Tiễn Quan Âm Cứu Khổ 4 Download Chân Lý Thực Tiễn Quan Âm Cứu Khổ 3 Chân Lý Thực Tiễn Quan Âm Cứu Khổ 3 Download Chân Lý Thực Tiễn Quan Âm Cứu Khổ 2 Chân Lý Thực Tiễn Quan Âm Cứu Khổ 2 Download Chân Lý Thực Tiễn Quan Âm Cứu Khổ 1 Chân Lý Thực Tiễn Quan Âm Cứu Khổ 1 Download Thiền sư Thích Nhất Hạnh 1926 - 2022 - Ảnh LÀNG MAI Theo cáo phó của đạo tràng Mai Thôn, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viên tịch vào lúc 1h30 ngày 22-1-2022 nhằm ngày 20 tháng chạp năm Tân Sửu tại tổ đình Từ Hiếu TP Huế, ngôi chùa mà 80 năm trước ông thọ giới Sa Di và cách đây hơn ba năm ông chọn làm nơi an dưỡng những ngày cuối đời trước khi trở về cõi Phật. Ông sinh ngày 11-10-1926 tại xã Thành Trung, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, thế danh Nguyễn Xuân Bảo, xuất gia năm 16 tuổi, pháp danh Trừng Quang, pháp tự Phùng Xuân, pháp hiệu Nhất Hạnh, thuộc thế hệ thứ 42 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ tám của phái Liễu Quán. Con đường hành hương của một thiền sư thời hiện đại Cuộc đời và hành trạng của thiền sư đã khắc họa nên một khuôn mặt trí thức Phật giáo tiêu biểu mà tầm ảnh hưởng có thể sánh với Đức Đạt Lai Lạt Ma, đồng thời là một trong những nhà văn hóa thể hiện tinh hoa của dân tộc Việt Nam. Sau hai năm theo học tại Phật học đường Báo Quốc Huế, năm 1949 ông vào Sài Gòn tiếp tục tu học, làm giáo thọ rồi giám học tại Phật học đường Nam Việt chùa Ấn Quang. Trong những năm 1950 ông tham gia sáng lập và làm chủ bút các tạp chí Liên Hoa, Phật Giáo Việt Nam, sau đó cùng một số đệ tử xây dựng Phương Bối Am ở Bảo Lộc Lâm Đồng làm nơi tu tập. Việc chưa hoàn thành, do hoàn cảnh, ông sang Hoa Kỳ nghiên cứu tôn giáo học so sánh ở Đại học Princeton New Jersey và giảng dạy ở Đại học Columbia New York. Trên đất Mỹ, ông tích cực vận động dư luận thế giới phản đối chính sách kỳ thị và đàn áp của chính quyền đối với phong trào Phật giáo trong nước. Sau biến cố ngày 1-11-1963, đáp lời kêu gọi của thượng tọa Thích Trí Quang, thiền sư Nhất Hạnh về nước tiếp tục tham gia hoạt động chấn hưng Phật giáo. Trong khoảng thời gian chưa đầy ba năm, ông cùng những cộng sự đồng chí hướng xây dựng Viện cao đẳng Phật học, tiền thân của Viện đại học Vạn Hạnh; sáng lập các tuần báo Hải Triều Âm, Thiện Mỹ, nguyệt san Giữ Thơm Quê Mẹ và Nhà xuất bản Lá Bối; đồng thời khởi tạo Dòng tu Tiếp hiện, làng Tình thương và Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội như một mô hình công tác xã hội dựa trên đức từ bi và vô úy. Chiến tranh lan rộng và ngày càng khốc liệt, dưới sức ép của nhà cầm quyền, Nhất Hạnh phải lìa xa đất nước một lần nữa, lần này kéo dài 39 năm. Ở Mỹ và các nước Tây Âu, ông dấn thân vào cuộc vận động hòa bình cho Việt Nam qua các buổi diễn thuyết, cầu nguyện và quyên góp tài chính ủng hộ nạn nhân chiến tranh. Giới trí thức nước ngoài đánh giá cao hoạt động của ông, đặc biệt mục sư Martin Luther King từng đề cử ông cho giải Nobel hòa bình. Sau năm 1975, ông và đồng đạo tiếp tục làm công tác thiện nguyện giúp đỡ những đồng bào nghèo khó qua chương trình "Máu chảy ruột mềm". Công tích lớn nhất của ông trong giai đoạn này là kiên trì xây dựng Trung tâm thiền tập Làng Mai ở Loubès-Bernac, vùng tây nam nước Pháp, thu hút sự tham gia của người mộ đạo từ các châu lục. Trong những năm 2005 - 2008, thiền sư Nhất Hạnh cùng đạo tràng Mai Thôn về Việt Nam ba lần trong lịch trình hoằng pháp từ Nam ra Bắc với các buổi thuyết giảng, hướng dẫn các khóa tu, tổ chức đại trai đàn cầu siêu cho nạn nhân chiến tranh, tham dự Đại lễ Vesak - tất cả mang tinh thần hòa hiếu trong ý hướng hòa giải và hòa hợp dân tộc. Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại Huế trong chuyến trở về Việt Nam năm 2005 - chuyến đi được thiền sư xem là một cơ hội lớn, một hạnh phúc lớn - Ảnh KHẢ LINH Những đóng góp lớn cho văn hóa dân tộc Sự nghiệp của thiền sư Nhất Hạnh không giới hạn trong những hoạt động phật sự và xã hội. Ông là thi sĩ, nhà văn xuôi nghệ thuật, nhà chính luận, nhà khảo cứu, nhà tư tưởng thiền học và duy thức luận - một tác gia lớn của văn hóa Việt Nam đã hiện diện trong đời sống tinh thần hơn bảy thập niên. Theo một thư mục chưa đầy đủ, với các bút danh Nhất Hạnh, Dã Thảo, Hoàng Hoa, Tâm Quán, Tuệ Uyển, Thiều Chi, Trần Thạc Đức, Nguyễn Lang, B’su Danglu, ông đã công bố 144 tác phẩm gồm sáng tác văn học, dịch phẩm, công trình biên khảo bằng tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Pháp. Một số tác phẩm có giá trị cao của ông được tái bản nhiều lần như Nẻo về của Ý, Việt Nam Phật giáo sử luận, Đường xưa mây trắng... Từng bị quên lãng trên quê hương mình, tác phẩm của Nhất Hạnh nay đã thức dậy và thắp sáng giữa lòng dân tộc. Tinh thần nhân bản Phật giáo thấm đậm trong toàn bộ sáng tác và trước tác của Nhất Hạnh. Đó là tinh thần đề cao giá trị con người và sự tồn tại hòa hợp của muôn loài trong môi trường sinh thái nhân văn. Thơ văn ông làm chứng bền bỉ và sâu sắc cho nỗi đau thương của dân tộc và kiếp người, bước đi trầm luân của đất nước qua hình ảnh "hoa sen trong biển lửa", khi chiến tranh và thiên tai ập đến những mái tranh nghèo và những phận người trôi dạt. Mùa bão lũ gây bao thảm cảnh cho đồng bào miền Trung năm ngoái và trận đại dịch COVID-19 hoành hành trên khắp đất nước ta gợi nhớ bài thơ Ruột đau chín khúc mà tác giả Nhất Hạnh viết bên bờ sông Thu Bồn trong chuyến đi cứu trợ nạn nhân bão lụt mùa đông năm Giáp Thìn 1964, với những câu mở đầu dung dị mà đầy nỗi xót thương Tôi đến đây để cùng khóc với các anh và các chị/ xứ sở ta đau thương và cảnh tình ta bi đát/ bàn tay tôi đây xin các anh nắm lấy, xin các em nắm lấy/ tôi muốn được nói cùng các anh và các chị dù sao thì chúng ta cũng phải can đảm để mà lo lắng cho trẻ thơ, cho ngày mai. Thật vậy, trọn đời mình, thiền sư Nhất Hạnh đã đứng bên cạnh và nắm tay cùng tuổi trẻ trong tình tự dân tộc trên con đường đi tới ngày mai. Giới trẻ miền Nam trước đây từng quen thuộc với các ca khúc Tôi ước mơ của Phạm Duy, Bông hồng cài áo của Phạm Thế Mỹ lấy cảm hứng từ thi tứ của Nhất Hạnh. Độc giả trẻ ngày nay đọc Nói với tuổi hai mươi, Đạo Phật của tuổi trẻ, Thả một bè lau mà Nhất Hạnh viết từ nhiều năm trước vẫn có thể tìm thấy sự chia sẻ của ông với nỗi băn khoăn, thao thức trong lòng mình. Trong hoàn cảnh nghiệt ngã của hận thù và chia rẽ, Thích Nhất Hạnh là một trong những nhà văn hóa sớm nhất kêu gọi đức khoan dung, xiển dương tinh thần đối thoại và hòa giải, như tên một cuốn sách ông in chung với linh mục Nguyễn Ngọc Lan Đối thoại - cánh cửa hòa bình. Đó là đối thoại để tìm ra tiếng nói chung giữa các thế hệ, các tôn giáo, các thành phần dân tộc khác nhau. Còn nhớ trong một chuyến về nước, ông và đại diện tăng thân Làng Mai đã đến thăm một xứ đạo Công giáo lâu đời để cùng trao đổi về cách thức tác hợp cho những đôi lứa khác đạo yêu thương nhau và ước nguyện tiến đến hôn nhân. Một cuộc đời phong phú dù có dài bao nhiêu cũng không thể thực hiện được hết các ý nguyện của mình. Một số dự án văn hóa và giáo dục do thiền sư Nhất Hạnh khởi xướng đang được các đệ tử tiếp nối tạo dựng viên thành. Sự nghiệp hiện đại hóa đạo Phật, như sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng và hành động của ông, luôn gợi ra những trăn trở và suy tư không chỉ cho tôn giáo mà còn cho văn hóa dân tộc. Đạo nhập thế để cứu đời, nhưng làm sao để đạo hoàn thành sứ mạng mà luôn giữ được tinh túy của mình, như những làn gió lành xua tan những áng mây mù che khuất vầng trăng. Thiền sư Nhất Hạnh nay đã về cõi Phật, nhưng di sản văn hóa mà ông để lại có thể giúp chúng ta tìm câu trả lời cho những vấn nạn của thời đại hiện nay trong tâm thế của những người luôn đề cao sự đối thoại và hòa giải - hòa giải với thế giới cũng như với chính mình. Bướm bay vườn cải hoa vàng trích Mười năm vườn xưa xanh tốt Hai mươi năm nắng dọi lều tranh Mẹ tôi gọi tôi về Bên bếp nước rửa chân Hơ tay trên bếp lửa hồng Đợi cơm chiều khi màn đêm buông xuống. Tôi không bao giờ khôn lớn Kể gì mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm Mới hôm qua đây, tôi thấy bướm bay từng đàn rộn rã trong khu vườn cải hoa vàng Mẹ và em còn đó Gió chiều như hơi thở Mơ gì một mảnh tương lai xa xôi? [...] Hãy thôi là nguồn khổ đau cho nhau Tôi tìm em. Như đêm giông tố loạn cuồng Rừng sâu đen tối Những cành cây sờ soạng Đợi ánh chớp lòe ngắn ngủi Thấy cần được hiện hữu bên nhau, tìm nhau Em hãy là đóa hoa đứng yên bên hàng giậu, Hãy là nụ cười, là một phần của hiện hữu nhiệm mầu. Tôi đứng đây. Chúng ta không cần khởi hành Quê hương chúng tôi đẹp như quê hương của tuổi thơ Xin đừng ai xâm phạm - tôi vẫn còn hát ca. [...] Tóc mẹ tôi còn xanh, và dài chấm gót Áo em tôi phơi còn phất phơ bay trước giậu Nắng sớm mùa thu Tôi ở đây. Chính thực là vườn xưa Những cây ổi trái chín thơm Những lá bàng khô thắm Đẹp Rụng Còn chạy chơi la cà trên sân gạch Tiếng hát vẳng bên sông Những gánh rơm thơm vàng óng ả Trăng lên, quây quần trước ngõ Vườn cải hoa vàng, chính mắt tôi vừa thấy sáng qua. Tôi không ngủ mơ đâu, Ngày hôm nay đẹp lắm, thật mà Em không về chơi trò bắt tìm nơi quá khứ Chúng mình còn đây, hôm nay, và ngày mai nữa, Đến đây Khi khát ta cùng uống ở một giếng nước thơm trong. [...] Hiện hữu không kêu gọi tình thương. Hiện hữu không cần ai phải thương ai Nhưng em phải là em, là đóa hoa, là bình minh hát ca, không đắn đo suy tính Xin ghi vào đây một tân ước nữa của tất cả chúng ta Và xin vẫn nghe lời tôi như nghe suối reo, như nhìn trăng sáng Em về, đưa Mẹ về cho tôi thăm Cho tôi hát em nghe, để tóc em sẽ dài xanh như tóc Mẹ. NHẤT HẠNH Truyền thông quốc tế Thiền sư Phật giáo nổi tiếng người Việt Nam đã viên tịch Mục sư Martin Luther King, nhà hoạt động nhân quyền người Mỹ gốc Phi, chủ nhân Nobel hòa bình 1964, ngồi cạnh thiền sư Thích Nhất Hạnh trong cuộc họp báo ở Chicago năm 1966. Ông King đã đề cử thiền sư Thích Nhất Hạnh ở hạng mục giải Nobel hòa bình năm 1967, nhưng năm đó Nobel hòa bình đã không trao cho ai - Ảnh AP Bắt đầu từ khuya 21-1 giờ Việt Nam, các hãng thông tấn báo chí lớn nhất của quốc tế, đặc biệt ở Mỹ và châu Âu, như các hãng tin AP Mỹ, AFP Pháp, Reuters Anh, Agencia EFE Tây Ban Nha, báo New York Times, Đài CNN... đều đã liên tục đưa tin và cập nhật các bài viết liên quan việc thiền sư Thích Nhất Hạnh của Việt Nam đã qua đời tại chùa Từ Hiếu của TP Huế. Điểm gặp gỡ chung trong các bản tin này đều khẳng định vị thế và tầm ảnh hưởng rất lớn về tư tưởng Phật pháp mà thiền sư Thích Nhất Hạnh đã lan tỏa trong suốt cuộc đời dài gần một thế kỷ của ông. Hãng tin AP ca ngợi ông là người đã giúp mở đường cho khái niệm thiền chánh niệm ở phương Tây và cho chủ nghĩa Phật giáo nhập thế ở phương Đông. Báo New York Times ca ngợi ông là "một trong những thiền sư có ảnh hưởng nhất thế giới, đã truyền đi những thông điệp về chánh niệm, lòng trắc ẩn và bất bạo động". Tờ báo lớn hàng đầu của Mỹ không quên nhắc về những đóng góp lớn của ông trong tư cách một nhà văn, nhà thơ với nhiều tác phẩm, một nhà giáo và một nhà hoạt động vì hòa bình. Truyền thông quốc tế cũng nói về những hành trình thuyết giảng Phật pháp không mệt mỏi trong suốt vài thập niên tại nhiều nơi ở Mỹ và châu Âu của thiền sư Thích Nhất Hạnh - người có thể sử dụng thành thạo hai thứ tiếng Anh và Pháp. Hãng tin Reuters cho biết ông có thể nói 7 thứ tiếng. "Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã có ảnh hưởng lớn tới việc thực hành đạo Phật ở phương Tây", báo New York Times viết, nhắc tới những thông điệp của ông kêu gọi sự tu tập chánh niệm, một điều mà trang web của ông mô tả là "năng lượng của sự hiểu rõ và thấu suốt từng khoảnh khắc của hiện tại". Trong cuốn An lạc từng bước chân, ông viết "Nếu chúng ta không thực sự là chính mình, thành thực trong phút giây hiện tại, chúng ta sẽ bỏ lỡ mọi thứ". Hãng tin Reuters nhắc lại chuyện ở giai đoạn ác liệt nhất của cuộc chiến tranh kháng chiến chống Mỹ tại Việt Nam những năm 1960, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã gặp mục sư Martin Luther King Jr. và thuyết phục được nhà hoạt động nhân quyền người Mỹ gốc Phi này cùng lên tiếng phản đối cuộc chiến tranh ở Việt Nam. "Cá nhân tôi không còn biết có ai khác nữa xứng đáng với giải Nobel hòa bình hơn nhà sư Phật giáo thiện lành người Việt Nam này" - Reuters dẫn lại một đoạn trong bức thư của mục sư Martin Luther King. THOA tổng hợp Xin đọc bộ Anh Hùng Tiêu Sơn trước khi đọc bộ Thuận Thiên Di độc giả đã đọc chín trăm trang, bộ Anh-hùng Tiêu-sơn, giai đoạn một, mang tên Thầy Tăng Mở Nước. Danh từ Thầy Tăng Mở Nước xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ mười một. Các sử gia tranh luận bao năm về vấn đề Thầy Tăng đó chỉ vào ai? Ngài La Quý-An? Ngài Vạn-Hạnh? Ngài Lý Khánh-Vân hay Ngài Bố-Đại? Như quý độc giả thấy, tất cả các Ngài, chứ không phải một đến nay, không ai xác nhận danh tự ấy chỉ vào vị nào! Sự thực bấy giờ các tăng sĩ đều quan niệm Đạo pháp, dân tộc là một. Cũng như mới đây, hoàn cảnh đất nước, đã khiến linh mục Lương Kim-Định nêu ra Linh-mục phải một vai vác Thánh Giá, một vai gánh Non Sông. Còn hầu hết các tăng ni, dù giòng nào, dù chi nào, dù phái nào, cũng ngửa mặt nhìn về thời đại Tiêu-sơn, suy ngẫm hành sự sao cho đúng với tinh thần Đạo Pháp – Dân Tộc là đoạn thứ nhì của bộ Anh-hùng Tiêu-sơn mang tên Thuận-Thiên di sử. Thuận-Thiên là niên hiệu của vua Lý Thái-Tổ. Ngài sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp-Tuất 8-3-974. Nhằm niên hiệu năm thứ năm đời vua Đinh. Băng hà ngày 3 tháng 3 năm Mậu-Thìn 31-03-1028. Nhằm niên hiệu Thuận-Thiên thứ mười vua Lý Thái-Tổ lên ngôi vua ngày 12 tháng mười năm Kỷ-Dậu 1009 nhưng theo truyền thống, cho đến hết năm đó, Ngài vẫn dùng niên hiệu Cảnh-thụy thứ nhì của vua Lê ngọa sau ngày 1 tháng giêng năm Canh-Tuất 1010, Ngài mới đặt niên hiệu Thuận-Thiên. Ngài băng hà tháng ba năm Mậu-Thìn 1028. Như vậy thời gian Thuận-Thiên gồm mười chín gian Thuận-Thiên được ca tụng như những năm tháng thanh bình, hạnh phúc nhất trong lịch sử tộc Việt. Thế nhưng những người nghiên cứu sử Hoa-Việt, đều không ít thì nhiều đặt các nghi vấn như sau– Đầu triều Tống, Nho học chưa mấy thịnh. Thế mà khi Lê Hoàn cướp ngôi nhà Đinh. Tống Thái-Tông hùng hổ sai Hầu Nhân-Bảo, Tôn Toàn-Hưng, Triệu Phụng-Huân, Quách Quân-Bảo… đem mấy chục vạn quân sang đánh, nêu lý do diệt kẻ thoán vị, cướp ngôi vua của ấu quân, khi chúa qua đời. Thế mà giữa đời Tống, Nho học cực thịnh. Triết lý trung quân đề cao, tại sao Lý Công-Uẩm cướp ngôi của nhà Lê, vua tôi nhà Tống lờ đi, hơn nữa còn sai sứ sang phong chức tước cho nữa? Có thực Tống tử tế như thế không? Hay vì dư oai trận Bạch-đằng chưa hết? Hoặc vì lý do nào khác? Thưa sự thực vìø Lý Công-Uẩn là phò mã của vua Lê Đại-Hành. Nho-giáo hết sức đề cao việc vua Nghiêu nhường ngôi cho vua Thuấn, vì vua Thuấn là người hiền, hơn nữa Ngài được vua Nghiêu gả hai công chúa là Nga-Hoàng và Nữ-Anh cho. Nay Lý Công-Uẩn cũng là người hiền, cũng là phò mã!– Tống, Việt, ngăn cách nhau bằng khu núi rừng, mang tên Bắc-biên. Nơi đó có 207 bộ tộc sống như những nước nhỏ. Khi Tống mạnh, theo Tống. Khi Việt mạnh theo Việt. Triều đình cũng như biên thần nhà Tống hết sức dành dân, lấn đất. Thuận-Thiên hoàng đế cùng anh hùng thời đó làm cách nào giữ được, cho đến nay vẫn thuộc Việt?– Hồi Lê-Hoàn cướp ngôi nhà Đinh, Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp, đem quân chống lại, gây cảnh tương tàn. Lại còn Ngô Nhật-Khánh mượn quân Chiêm về đánh phía Nam. Thế sao khi Lý Công-Uẩn cướp ngôi vua, bấy giờ chỉ giữ chức vụ khiêm tốn Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ. Tức coi hệ thống bảo vệ vua Lê. Vậy các quan trấn ở ngoài, cũng như trong triều đâu, mà không chống trả? Nguyên do nào?– Vua Lý Thái-Tổ, đã cai trị dân như thế nào, mà các sử gia sau này ca tụng công đức đến không tiếc lời?– Sử nói rằng, thời đại Tiêu-sơn, là thời đại cực thịnh của Phật-giáo. Thế nhưng một người Việt không rõ tên họ, cùng Lưu Trí-Viễn mang một thứ tôn giáo ở bộ lạc Sa-đà về Trung-quốc. Rồi từ đó lập ra triều Hán Thời Lục-triều. Sau ông ta trở về Đại-Việt tranh dành ngôi vua, gây thành cảnh núi xương sông máu thời mười hai sứ quân. Hành trạng của ông ta ra sao?Xin độc giả theo dõi trong chín trăm trang, bộ Anh hùng Tiêu sơn, giai đoạn hai, mang tên Thuận-Thiên di sử. Nói về công khai trí cho dân Việt và cho thế giới để ánh sáng tỉnh thức của đạo Phật được lan tỏa sâu rộng thì có thể nói Thiền sư Thích Nhất Hạnh xứng đáng xếp vào số ít người đi đầu. Sư ông Làng Mai lập ra thiền phái nhập thế, đem đạo Phật để giải đáp những vấn đề của xã hội đang diễn ra. Thiền phái của thầy không nói đến kiếp sau, kiếp trước, không bàn về cõi cực lạc hay địa ngục. Thiền phái đó có thể xem là hiện thân đích thực của Phật giáo nguyên thủy, khi Như Lai còn tại thế. 1. Sư ông Làng Mai rất giản dị. Cái giản dị ấy là tự nhiên như sông núi, mây trời, không phải lên gồng, giả bộ. Sư ông không hề có tài khoản ngân hàng và xe cộ hay vật dụng nào đắt tiền. Sư ông chỉ có ba bộ quần áo nâu tiếp khách và ba bộ quần áo mặc ở phòng. Phòng của sư ông cũng không có đồ đạc gì hiện đại hay đắt tiền. Tất cả đều màu nâu và vàng nghệ. Sư ông không uống trà loại 40 triệu/kg. Nếu người ta biếu thì sư ông tặng lại cho người khác. Cơm nước đều dùng chung với đệ tử. Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Ảnh Làng Mai. Uống và ăn đối với sư ông rất nhẹ nhàng. Một củ khoai, một ngụm nước lọc cũng xong bữa. Chính vì không sở hữu gì nên sư ông và đệ tử không bị dính mắc, thân tâm rất an lạc, hạnh phúc. 2. Không sở hữu gì nhưng sư ông Thích Nhất Hạnh còn giàu hơn cả các đại gia giàu có nhất. Thật thế! Sư ông không có nhà nhưng sư ông có thể ngủ lại ở bất cứ căn nhà sang trọng nào nếu sư ông muốn. Nhiều người dâng tặng sư ông cả ngàn hec-ta đất để làm tu viện. Các tỷ phú Mỹ đã tặng sư ông cả hàng triệu USD sau khi nghe hai giờ thuyết pháp. Sư ông dùng tiền đó để mở mang Phật pháp, tuyệt nhiên không thay đổi lối sống của mình. 3. Sư ông nhận được sự tôn kính lớn từ quần chúng. Quần chúng ấy không phân biệt màu da, tiếng nói và tôn giáo. Người ta xếp hàng dài để ngóng sư ông bước ra từ máy bay. Nhiều người nhìn thấy sư ông thì òa khóc vì sung sướng. Họ quỳ rạp trước sư ông, hôn lên bàn chân của sư ông. 4. Bộ Đường xưa mây trắng của sư ông là tác phẩm kinh điển bậc nhất của Phật giáo, cũng là tác phẩm tóm gọn tất cả tư tưởng của sư ông. Ta muốn thấu hiểu Phật giáo mà không cần phải đọc gì khác thì hãy nghe hoặc đọc cuốn này khoảng 50 lần. Sách của sư ông rất lạ. Đơn giản thì đúng là đơn giản nhưng nói cao siêu thì cũng rất cao siêu. Trong 50 lần đọc đó, ta sẽ có 50 tầng giác ngộ khác nhau. Xong 50 lần nghiên cứu thì ta không cần phải đọc thêm bất cứ sách Thiền, sách Phật nào khác, kể cả sách của chính sư ông viết. Sách của Thích Minh Niệm, nhìn cho kỹ, cũng diễn dịch từ tư tưởng của sư ông Thích Nhất Hạnh mà ra. 5. Có giai thoại thú vị thế này Có một nhà tỷ phú hảo tâm muốn liên kết với sư ông để xây dựng một đại Thiền viện ở Đà Lạt. Sư ông đưa ra yêu cầu Không được đặt các tượng Phật, La Hán hay Bồ Tát. Chỉ đặt một pho tượng Thích Ca nhỏ ở chính đường. Không được thắp hương và khấn vái. Thiết kế thiền viện phải tối giản và khiêm tốn. Chỉ được dùng sơn màu nâu. Nhà tỷ phú hảo tâm trố mắt ngạc nhiên. Sự liên kết đó bị hỏng. Ông ta không hiểu được tư tưởng của sư ông. Cứ tưởng sư ông thích chùa lộng lẫy, tượng đồng thật to để mong được thập phương cúng dường tam bảo. Ông ta đâu biết sư ông luôn coi Phật giáo là bộ môn khoa học phục vụ cho đời sống theo một cách thức rất thực tế. 6. Sư ông Nhất Hạnh về nước tháng 8/2017 Nghe nói lần này sư ông về Đà Nẵng, cộng đồng Việt Nam đang rất xúc động và háo hức. Tôi cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, tôi hiểu rằng gặp sư ông hay không gặp là điều không quan trọng lắm. Đức Phật thế tôn xưa có nói Ai hiểu Như Lai, làm theo được chánh pháp thì Như Lai luôn ở bên người ấy. Ai không hiểu Như Lai mà vẫn sùng kính Như Lai, không làm theo chánh pháp thì dẫu Như Lai ngay trước mắt vẫn giống như Như Lai đang ở xa ngàn dặm. Cách đây tầm vài năm, nhận được tin sư ông sắp qua đời, tôi không buồn mà chỉ hơi suy tư. Tôi viết Trần gian còn nhiều nỗi đọa đày Sao thầy quảy dép thẳng về Tây? Dẫu biết tử sinh không thể tránh Mà biệt ly này cho mắt cay. Nhưng ngẫm lại, sư ông qua đời thì cũng như một cây đại thụ đã làm tròn sứ mệnh của mình. Đã đến lúc thân phàm của cây đại thụ cũng phải tàn hoại. Âu cũng là lẽ vô thường không ai tránh khỏi. Sư ông đã sống trọn vẹn một cuộc đời đầy cao đẹp và ý nghĩa. Hôm 22/1/2022, sư ông Nhất Hạnh viên tịch tại Tổ đình Từ Hiếu, TP Huế, ở tuổi 96. Sư ông ra đi thanh thản và vui vẻ thì chúng ta cũng không nên bi ai. Những tinh túy và con đường tỉnh thức sư ông đã trao truyền cho chúng ta. Còn gì nữa mà phải đòi hỏi sư ông phải tiếp tục cống hiến? Nhờ có sự dạy bảo của sư ông mà có con tỉnh thức hôm nay. Tạ ơn sư ông đưa đường chỉ lối cho con quay về nương tựa. Xin từ xa gửi đến Người sự tôn kính và lời tri ân sâu sắc. Đỗ Cao Sang Thiền sư Thích Nhất Hạnh, một đời cho Phật pháp và hòa bình 96 năm trụ thế, Thiền sư Thích Nhất Hạnh được biết đến là một nhà hoạt động tôn giáo, nhà thơ, nhà hoạt động vì hoà bình được thế giới kính nể với những lời dạy thông qua chánh niệm về hoà bình, xây dựng cộng đồng…

thien su di nhu